Bước đầu suy nghĩ về Văn học Mạc

Nguyễn Huệ Chi

Nói về văn học Mạc, về mặt khái niệm theo tôi phải giới thuyết xem văn học thời Mạc là cái gì? Tôi nghĩ, có thể tạm vạch ra mấy giới thuyết sau đây.
Trước hết về thời gian, nhà Mạc bắt đầu từ năm 1527 kéo dài đến mãi 1677 thì mới chấm dứt, thế nhưng lại có hai giai đoạn: Giai đoạn 1527 – 1592 nhà Mạc đóng đô ở Thăng Long và sau đó họ Trịnh đem binh ra, họ Mạc phải lên Cao Bằng. Ta nên khuôn lại trong giai đoạn thứ nhất, lúc bấy giờ sĩ tử quy tụ về Thăng Long rất nhiều và đó là điều kiện “nhân lực” chủ yếu làm nên văn học Mạc.
Xét về không gian, hãy để ý, thời đại này không phải chỉ có một trung tâm Thăng Long nữa mà đã có Nguyễn Hoàng chạy vào Nam định cư ở Phú Xuân, có Nguyễn Kim và Trịnh Kiểm tìm đường trung hưng nhà Lê ở Thanh Hóa. Cho nên thực tế, đất nước đã chia làm mấy trung tâm. Thế thì nói đến văn học thời đại Mạc là nói đến nền văn học trong phạm vi không gian do nhà Mạc quản lý với trung tâm Thăng Long, còn các không không gian khác không những văn học Mạc không với tới đã đành, ngay những người như Phùng Khắc Khoan, mặc dù là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm nhưng sau đó lại vào Thanh Hóa thi với nhà Lê và sáng tác dưới sự chỉ đạo của triều đình Lê, thì ví thử đặt ông vào nội hàm văn học Mạc cũng sẽ là khiên cưỡng.
Xét về lực lượng sáng tác, có mấy hiện tượng đáng quan tâm.
Hiện tượng thứ nhất là khi Mạc Đăng Dung 莫登庸 (1483 – 1541) lên ngôi (1527), quyền uy cả nước thu về tay ông, sức hút của Mạc Đăng Dung rất lớn, vì thế trừ một só rất ít, gần như tất cả quan lại của nhà Lê cũ đều quay sang thần phục Mạc và sáng tác dưới ảnh hưởng của nhà Mạc. Những người như Nguyễn Giản Thanh là Trạng nguyên nhà Lê cũng trở thành vị quan lớn trong Triều đình Mạc. Không thể không coi họ là lực lượng sáng tác song hành, trước của Lê và sau của Mạc. Cũng thế, về cuối thời nhà Mạc lại có những ông quan khá to, thờ Mạc hết lòng, như Hoàng Sĩ Khải, khi Mạc chạy lên Cao Bằng bèn quay sang thờ Lê. Tất nhiên ta không thể xếp ông ấy sang hàng ngũ nhà văn Lê Trung hưng một cách giản đơn mà phải căn cứ trên tác phẩm cụ thể để coi đấy là nhà văn của Mạc hay của Lê, vì sách ông ấy hiện còn hầu như đều là sách viết dưới triều đại Mạc.
Sau khi thanh toán xong hai loại người “xôi đỗ” ấy rồi, lực lượng chính làm nên văn học triều đại Mạc, theo tôi là những Nho sĩ đã thi đỗ ngay dưới triều nhà Mạc, và lực lượng này không phải ít. Từ năm 1527 đến 1592 Mạc đã mở 21 khoa thi Hội, lấy đỗ 486 Tiến sĩ và 11 Trạng nguyên. Nếu như so sánh với triều Lê sơ thì ta thấy dưới thời Hồng Đức, trong vòng 38 năm có 12 kỳ thi chọn được 501 Tiến sĩ và 9 Trạng nguyên. Vậy thì trong tương quan 65 năm của nhà Mạc và ngót 50 năm của triều Lê Thánh Tông, Mạc không thua kém gì Lê trong việc đào tạo một đội ngũ trí thức cho Triều đình và xã hội. Chỉ có hiện tượng hơi khác là ở chỗ, dưới triều đại Mạc, trong hàng ngũ trí thức thi đỗ thường phân ra làm hai. Một bộ phận sau khi đỗ, nhập cuộc, làm quan và sáng tác, chủ yếu ở Kinh đô. Một bộ phận nữa không ở lại triều mà về ẩn ở làng quê. Họ cũng là lớp người cầm bút, nhiều người nổi tiếng. Cho nên có thể nói, có hai thành phần làm nên văn học Mạc là thành phần nho sĩ quan liêu và thành phần nho sĩ ẩn dật. Lực lượng sáng tác tạo nên nền văn học Mạc chủ yếu tập trung vào hai thành phần ấy. Không nên sánh với thời Lý – Trần là một thời đặc biệt rực rỡ, chỉ giới hạn từ mở đầu triều Lê sơ, lấy Nho học làm độc tôn, thì một thế kỷ của nhà Lê và 65 năm của nhà Mạc cũng chỉ là bên tám lạng đằng nửa cân. Có đối chiếu cặn kẽ ta mới có đủ ít nhiều cứ liệu để nhìn nhận bước tiếp nối của văn học Mạc kế sau văn học Lê sơ.
Nhà Mạc có một thiệt thòi là sau đó bị đám triều thần bảo thủ nhà Lê cố gắng phục hưng Lê và đánh bại Mạc để trở lại chấp chính, trong đó có rất nhiều sử quan. Những chính khách nhà Lê này không coi Mạc là triều đại chính thống, họ cố tình xóa bỏ mọi thành tựu của nhà Mạc để lại, kể cả thành tựu văn học. Và các sử quan của nhà Lê Trung hưng viết về nhà Mạc cũng viết không đến nơi đến chốn. Thơ văn, học giả, tác gia của triều đại Mạc còn lại trong sử sách không thể nhiều như con số dưới triều Lê sơ một phần cũng vì lẽ ấy. Đấy là một thiệt thòi. Dầu sao, cứ nhìn cho kỹ, triều đại Lê sơ cũng không còn lại bao nhiêu. Có Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân, Vũ Mộng Nguyên, Phan Phu Tiên, Nguyễn Bảo, Thái Thuận, Đặng Minh Khiêm, Vũ Quỳnh, Hoàng Đức Lương… một tập thơ của Tao đàn nhị thập bát tú. Nhưng nhìn chung, để có thể thấy rõ được giá trị thì nổi bật lên có 3 người. Đó là một Nguyễn Trãi (1380 – 1442) như đỉnh cao của nửa đầu thế kỷ XV. Một Lê Thánh Tông (1442 – 1497) như đỉnh cao của nửa cuối thế kỷ XV. Một Thái Thuận (1440 – ?) như người vắt ngang giữa hai đầu thế kỷ. Triều Lê sơ nói cho cùng cũng chỉ có thế. Triều Mạc có một số văn nhân rất nổi tiếng như Nguyễn Giản Thanh (1482 – ?) với bài Phụng thành xuân sắc phú, mặc dù sáng tác cuối triều Lê sơ nhưng tác phẩm ấy thực ra ca ngợi thành Phụng trong bước chuyển đổi cung cách sinh hoạt từ Lê sang Mạc. Ông lại còn có Thương Côn châu ngọc tập mà bây giờ không còn nữa. Bùi Vịnh (1498 – 1545) đỗ Bảng nhãn năm 1532 có Đế đô hình thắng phú, Cung Trung bảo huấn. Lê Quang Bí (1504 – ?) đỗ Tiến sĩ năm 1526 và ra làm quan với nhà Mạc rồi đi sứ Trung Quốc, bị lưu đày ở Trung Quốc 18 năm. Trong suốt thời gian ở Trung Quốc ngồi ngẫm nghĩ lại tất cả những nhân vật lịch sử nước nhà, ông viết được một tập thơ ghi nhớ công ơn các danh nhân đất nước và bày tỏ tình cảm đối với quê hương( ). Đây là một tập thơ có giá trị của thời Mạc. Lại có người nổi danh về văn học chính trị như Giáp Hải (1507 – 1586), Trạng nguyên làng Dĩnh Kế. Thành tích lớn của ông là vận dụng thơ văn vào công việc ngoại giao giữa nước ta và Trung Quốc. Ông đã lên tận Ải Nam Quan đối đáp với tướng nhà Minh Mao Bá Ôn. Bằng bài thơ Vịnh bèo, Giáp Hải đã làm cho Mao Bá Ôn cảm nhận được nhân tài nước nam còn nhiều, cuối cùng Mao đành lui binh. Giáp Hải còn có tập Ứng đáp bang giao, một tập hợp văn, thư, biểu trong các cuộc bang giao giữa Việt Nam và Trung Quốc nhiều đời, một tác phẩm đáng quý, tiếc chưa thể tìm lại được. Nguyễn Hàng (? – ?), đỗ Hương tiến nhưng không làm quan cho nhà Mạc mà trở về làm một danh sĩ làng quê. Tuy nhiên ông cũng không theo những kẻ chống Mạc. Từ chỗ ở ẩn ông lập thành một văn phái gọi là văn phái làm phú Nôm. Ông trở thành ông tổ của phú Nôm thời Mạc với nhiều bài phú rất hay như: Tịch cư ninh thể phú, Đại Đồng phong cảnh phú, Tam ngung động phú… Có Hoàng Sỹ Khải (khoảng 1516 đến 1520 – ?), đậu Tiến sĩ 1544, có đến mấy tập thơ như Sứ Bắc quốc ngữ tập, Sứ trình khúc, Tiểu độc lạc phú, Tứ thời khúc vịnh. Hoàng Sĩ Khải là một nhà văn lớn. Chính Hoàng Sỹ Khải là người mở đầu cho việc làm thơ Nôm khi đi sứ. Có Hà Nhậm Đại (1525 – ?) đậu Tiến sĩ 1574, người để lại tập thơ vịnh sử Khiếu vịnh thi tập( )… Nếu so sánh những nhà văn hạng trung của Lê sơ với những nhà văn hạng trung của Mạc thì sự cách biệt giữa hai bên chưa hẳn đã nhiều. Văn học thời Mạc từ một cái nền như vậy đã kết tinh được hai đỉnh kiệt xuất.
Đỉnh thứ nhất là Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585). Ông là một nhà văn hóa, và riêng ở bình diện văn hóa mà nói thì tầm vóc không thua kém Nguyễn Trãi là mấy, phần nào đấy còn khai phá vào một vài lĩnh vực sâu hơn. Bởi ông chuyên về dịch học. Chính ông xây dựng nền tảng của tư tưởng biện chứng trong Kinh Dịch, góp vào lịch sử tư tưởng Việt Nam một số kiến giải mới mẻ. Là một nhà Dịch học nên ông nổi tiếng là bậc tiên tri, nhưng ông cũng lại là một nhà thơ lớn. Ông viết đến một nghìn bài thơ chữ Hán. Đây là con số mà từ thời đại Mạc trở về trước hoàn toàn chưa có. Đến như Nguyễn Trãi cũng chỉ có 105 bài (chắc chắn thơ Nguyễn Trãi đã bị mất mát nhiều nhưng không rõ nếu còn thì có đến 1.000 bài hay không). Lê Thánh Tông tuy tỏ rõ tài năng hùng hậu về thơ, đề tài lại đa dạng, song đứng về số lượng, so với Nguyễn Bỉnh Khiêm hẳn vẫn không bằng. Bên cạnh thơ chữ Hán, thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng rất dồi dào. Thơ Nôm ông hay, có mặt không thể sánh với thơ Nôm Nguyễn Trãi, lại có mặt đánh dấu một chặng phát triển mới so với thơ Nguyễn Trãi. Rất may mắn cho chúng ta, hiện nay đã tìm được khoảng 800 bài thơ chữ Hán, 180 bài thơ Nôm của ông. Đây là một đỉnh cao chói lọi của văn học triều đại Mạc.
Đỉnh thứ hai là Nguyễn Dữ (? – ?). Ông là một người ở ẩn không ra làm quan mặc dù thi đỗ Hương cống và là học trò Nguyễn Bỉnh Khiêm( ). Trong thời kỳ ở ẩn ông đã viết được một tập truyện xuất sắc. Đó là Truyền kỳ mạn lục được đời sau gọi là thiên cổ kỳ bút – ngọn bút kỳ tài nghìn thu không có. Tập truyện này mở ra một thể loại văn xuôi nghệ thuật dân tộc là truyện ngắn truyền kỳ. Ở Việt Nam, văn xuôi, nhất là văn xuôi nghệ thuật, vốn định hình muộn hơn thơ, nhưng đến Nguyễn Dữ không hiểu vì lẽ gì tạo được một sự đột phá khiến văn giới sửng sốt ngạc nhiên mà mãi nhiều thế kỷ sau cũng không theo kịp.
Như vậy Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Dữ là hai nhà văn tầm cỡ của văn học thế kỷ XVI, của văn học Mạc, không thua kém bất kỳ đỉnh nào từ trước cho đến đấy và từ đấy về sau. Đứng về mặt khái quát chung, văn học triều đại Mạc là một nền văn học không nhỏ, nó xứng đáng đóng một vai trò đáng kể trong lịch sử văn học Việt Nam.
Nói về đặc điểm của văn học triều đại Mạc thì cần có một vài giới thuyết trước khi bàn vào các biểu hiện đích thực của nó. Ở đây chỉ nhấn mạnh đến những đặc điểm mà văn học Mạc góp vào tiến trình văn học chung như là những nhân tố mới, còn tất cả mọi đặc điểm vốn đã có trong văn học truyền thống, thời Mạc vẫn kế tục, như phát huy tinh thần yêu nước, hoặc hoàn thiện thể thơ xen lục ngôn, v.v. thì không cần đề cập quá sâu, vì sự tiếp nối là một quy luật chung cho nhiều thời đại. Đối với đề tài văn học yêu nước, văn học thời Mạc không những không để cho tàn lụi mà lại biết mở rộng phạm vi từ thơ sang truyện, áp dụng thủ pháp nghệ thuật truyền kỳ làm cho nó có thêm sức sống. Chỉ lấy hai dẫn chứng từ Nguyễn Dữ: truyện Chức Phán sự đền Tản Viên là cuộc đấu tranh kiên cường của một Nho sinh nhằm giành lại vị trí chủ nhân cho ông Phán sự người Việt ở ngôi đền Tản Viên, vạch trần trò ma mãnh hiếp đáp của con quỷ đến chiếm đền vốn là một bộ tướng của Liễu Thăng bị chết trận tại nước ta, cuối cùng giành phần thắng về cho ông Phán hiền lành này. Hay như truyện Lệ Nương khắc họa số phận một cặp tình nhân bị chia lìa, vai nữ chịu nhiều oan khổ, cuối cùng chết trong tay bọn giặc Minh sang xâm lược, về sau người yêu Lệ Nương đã tìm đến đầu quân cho Lê Lợi lập nên nhiều chiến công trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Rõ ràng tinh thần chủ nghĩa yêu nước đã được ngòi bút Nguyễn Dữ hóa thân vào nghệ thuật tiểu thuyết. Và dòng văn học yêu nước như một đặc điểm xuyên suốt lịch sử văn học dân tộc, đến Mạc vẫn không mất đi. Không chỉ thế, văn học Mạc còn có thêm những đóng góp khác, phát triển được các thể loại mang cảm hứng hồi cố (Lê quang Bí), hay âm hưởng sử thi (Hà Nhậm Đại), để tiếp nối dòng văn học này.
Thế nhưng chúng ta cần cân nhắc kỹ hơn mấy đặc điểm có thể gọi là mới của văn học triều Mạc sau đây.
Thứ nhất, nhìn trong xu thế chung, văn học Việt Nam có một yêu cầu nội tại để tạo nên bước nhảy vọt thật sự kể từ thế kỷ XVI trở đi, dấu mốc nhảy vọt ấy rơi đúng vào văn học triều đại Mạc. Đây là cái ngẫu nhiên mà cũng là cái tất yếu của lịch sử. Thời đại Lê sơ là đỉnh cao của độc tôn Nho giáo và thể chế quân chủ tập trung, phải chọn một vị vua làm biểu tượng để cho dân tôn thờ, thần thánh hóa, đặc điểm chung của văn học bởi vậy là hướng thượng. Phải quay nhìn lên ông vua và lấy ông vua làm hình mẫu, đem cảm hứng “vua sáng tôi hiền” kết nối thành động lực sáng tác. Đến triều đại Mạc, sau bao nhiêu chặng “vua quỷ” “vua lợn” của triều Lê sơ làm người ta chán nản, tự nhiên hình tượng cao quý là ông vua bị lu mờ, bị hạ thấp từ trong tiềm thức. Và cảm hứng “thần thánh hoá” đấng minh quân mất dần chỗ đứng. Người ta không còn hào hứng ngẩng lên, “hướng thượng”, trong sáng tác của mình. Tình trạng này gây ra một phản ứng trái ngược trong vô thức: người sáng tác bắt đầu từ chỗ nhìn lên nay quay nhìn trở xuống. Và khi nhìn xuống hạ dân thì một thế giới khác chợt hiện rõ trong tầm mắt. Họ bỗng nhìn thấy con người với bao nhiêu sự phức tạp, thánh thiện có mà tầm thường càng có ở chính đối tượng gần gũi nhất với mình ấy. Con người được phơi bày với những dục vọng, toan tính, những nét thấp hèn và cao cả, những tình cảm riêng tư, cá nhân. Đó chính là một phát hiện lớn của văn học thời đại Mạc, mở đầu cho một dòng văn học chạm chân vào hiện thực. Văn học thay đổi chức năng mà không tự biết: nó mô tả xã hội dưới góc nhìn đời tư và đời thường. Trước đây, Thông qua tiêu chí “cái cao cả”, nhà văn nhìn xã hội dầu không muốn cũng như được đánh bóng lên, được ước lệ hóa, công thức hóa, mỹ hóa thành một xã hội vàng son song trừu tượng, đâu cũng như nhau. Nhưng bây giờ nhìn vào khía cạnh đời tư đời thường thì cũng xã hội ấy lại hiện ra dưới muôn hình vạn trạng, nó đưa lại cho nhận thức thẩm mỹ rất nhiều giá trị, rõ nhất là trong tập truyện ngắn Truyền kỳ mạn lục. Truyện Người nghĩa phụ ở Khoái Châu cho thấy Trọng Quỳ là con nhà danh giá nhưng bị tha hóa trở thành một anh phá gia chi tử, nướng gia tài vào cuộc đỏ đen. Anh ta đánh bạc đến nỗi phải gán vợ khiến vợ tự tử chết. Truyện Người con gái đất Nam Xương thì nói đến một anh chàng ghen tuông. Đi lính xa trở về nổi cơn ghen, dò hỏi con, làm tình làm tội khiến vợ phải trẫm mình. Truyện Nghiệp oan của Đào Thị là câu chuyện trả thù đầy oan nghiệt của một người cung nữ nhan sắc, thông tuệ, khi vua chết bị thải ra khỏi cung cấm đến chơi nhà ông quan Hành khiển là người quen biết cũ bị bà vợ của quan đánh một trận thừa sống thiếu chết vì ngờ vực nàng tư tình với chồng mình. Từ đấy nàng tìm mọi cách trả thù, nhưng trước thế lực của kẻ giàu sang quyền thế, mưu kế của nàng chỉ mua lấy thất bại, đến nỗi tan nát tấm thân,… Hóa ra, dưới góc độ đời tư và đời thường, cả một thế giới phơi bày, trong đó không phải là những hình mẫu bất động, chỉ biết tuân theo theo các công thức “quân thần, phụ tử, phu phụ…” của đạo Nho cho sẵn, mà là một thế giới chuyển động rất sống động với nhiều tấn bi hài kịch của con người khó lòng dò đoán trước. Ngòi bút nhà văn giờ đây khám phá ra vô số chân lý sống xưa kia chưa hề nhìn thấy.
Đương nhiên nói con người là trung tâm của thế giới mà văn học thời này phát hiện thì cũng chính là nói đến cái xã hôi hạ dân được văn học vén màn, bởi con người nói trong văn học Mạc là biểu trưng cho xã hội ấy. Đó là cả một xã hội phức tạp. Nó không thuần nhất là xã hội nông nghiệp nữa mà bắt đầu có buôn bán, có thủ công, có làm giàu, và có đủ thứ lục đục xoay quanh nó, có cuộc đấu tranh giữa quyền lực và không có quyền lực, giữa ham muốn và bất lực. Không loại trừ cuộc đấu tranh muôn thuở về đạo đức giữa cái thiện và cái ác. Một xã hội phong phú hơn nhiều so với bức tranh xã hội thời Lê sơ mà văn học để lại.
Tính quy định vẻ đẹp tức là cái sắc màu sống thực của thời đại này phản chiếu trong văn học, thể hiện tiêu biểu ở tập truyện Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ cũng chuyển cả sang thơ, làm cho thơ ca mang một phương thức tư duy mới. Trước đây thơ là thơ trữ tình. Thơ bây giờ cũng là thơ trữ tình nhưng là trữ tình – lý trí. Nó rời bỏ tư duy cảm tính bước sang địa hạt tư duy lý tính. Và hướng cái nhìn vào xã hội, ấy là tư duy thế sự. Thơ trở nên có tính phát hiện hiện thực rất sắc sảo mà cây bút tiêu biểu là Nguyễn Bỉnh Khiêm:
“Ở thế làm chi cười lẫn nhau,
Giàu chê khó, khó chê giàu.
Người hàng thịt nguýt người hàng cá,
Đứa bán bò dèm đứa bán trâu.
Bé vú thở than người cả vú,
Ít râu ánh ỏi kẻ nhiều râu”
(Thơ Nôm, bài 112) ( )
Chúng ta thấy phong cách tư duy nghệ thuật của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khác Nguyễn Trãi. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhìn sâu vào các ngóc ngách của xã hội để nhận diện bức tranh phức tạp của xã hội. Bức tranh ấy diễn ra một cách tự nhiên bởi nó là bức tranh xã hội có thực.
Vì tư duy thế sự nên nhìn được vào tâm lý con người rất sâu:
– “Thớt có tanh tao ruồi dạo dạm miệng
Ang không mật mỡ kiến đem thân
Ruột hèn nếu cắt thì đau ruột
Chân đạp nhơ nào nỡ giẫm chân”
(Thơ Nôm, bài 65)
– “Tiền ròng bạc chảy tưng bừng đến,
Nhà khó tay không linh lỉnh đi.
Miệng nói sau lưng như dao nứa,
Lưỡi đưa trước mặt tựa kim chì”
(Thơ Nôm, bài 102)
Đặc điểm thứ ba là do cái nhìn thế sự, do cái nhìn tâm lý sâu sắc như thế, do xã hội phức tạp, có công, có thương, buôn bán phát triển nên văn học nhìn thấy tiếng va xiết của đồng tiền. Đây chính là giai đoạn bắt đầu nói đến vai trò của đồng tiền. Cũng chính Nguyễn Bỉnh Khiêm xác nhận vai trò đồng tiền như một tiếng động lạ, vang lên cái âm thanh đáng sợ của nó:
“Nghe thôi thinh thỉnh lại đồng tiền”
Đồng tiền hiện ra với tất cả vẻ quỷ quyệt khinh người. Nó có đủ sức mạnh làm tha hóa xã hội. Nhưng bên cạnh đó nó cũng có mặt tích cực mà Nguyễn Bỉnh Khiêm có nói đến: “Kẻ khó nhờ ơn, có kẻ giàu” (Thơ Nôm, bài 59). Trong Nguyễn Dữ, Trọng Quỳ vì đánh bạc mà phải gán vợ chứng tỏ vai trò của đồng tiền đã rất lớn.
Một đặc điểm nữa của văn học thời Mạc không thể bỏ qua không đề cập là nó đa thanh, không chỉ một giọng. Phải ở thời kỳ một bậc thánh minh ở tận trên cao, còn mọi người đều nem nép ngưỡng lên nhìn thì mới là văn học một giọng. Còn bây giờ bậc thánh minh đã được hạ xuống rồi và con người nhìn cuộc đời bằng cái nhìn bình đẳng, tự chủ, nhìn thẳng vào nó thì không còn văn học một giọng nữa mà phải là giọng của đối thoại. Tính đối thoại xác lập màu sắc dân chủ của văn học, và chính triều đại Mạc mang lại cho văn học. Trong Truyền kỳ mạn lục, Hồ Tông Thốc khi đi sứ sang Trung Quốc ghé đền Hạng Vũ trên hồ Động Đình làm một bài thơ có ý chê trách Hạng Vương 5 năm ngang dọc cuối cùng phải chết. Đêm đó bộ hạ của Hạng Vũ nổi lên triệu ông này xuống nước. Thế nhưng không phải triệu xuống để trừng phạt như các truyện dân gian khác, mà là triệu xuống để tổ chức cuộc đối thoại giữa Hạng Vũ với Hồ Tông Thốc. Trong khi Hạng Vũ ca ngợi mình, khẳng định mình đã làm nên nhiều công nghiệp lớn không kém gì nhà Hán thì Hồ Tông Thốc chỉ nhấn có một điểm thôi. Ông làm được rất nhiều chuyện thật, nhưng chuyện chữ nhân thì ông thiếu. Chính đó là cái thiếu lớn nhất và làm cho ông sụp đổ. Hạng Vũ nghe đến đâu mặt tái đi đến đấy. Nhưng có một người bộ hạ của Hạng ở bên cạnh, muốn cãi cho chủ bèn bàn góp vào, rằng: nói như Hồ thực ra cũng chưa thật thoả đáng, bởi Hán Cao Tổ chữ nhân cũng đâu có – Hán Cao Tổ đã giết rất nhiều nhân mạng và tàn bạo còn bằng mấy, chứ Hạng Vương vẫn được Ngu Cơ tuẫn tiết theo mình, nghĩa là còn có người yêu mình đến cùng. Cuối cùng Hồ Tông Thốc cũng thừa nhận điểm khả thủ đó của họ Hạng. Phải nhìn Hạng Vũ như thế mới thật công bằng. Quả tình ở đây đã có một sự đối thoại dân chủ và nhà văn để cho người đọc từ trong đối thoại mà tự mình tìm ra chân lý. Không thể nói khác rằng đây chính là một cống hiến đáng kể của văn học thời Mạc.
Một đặc điểm cuối cùng góp thêm sức nặng cho văn học Mạc là thời đại này đã bước đầu xây dựng nên hình tượng con người tự do. Ở thời đại Lê sơ vì lực hút của Triều đình phong kiến, Nho giáo độc tôn mạnh, nên gần như hút về tâm là quỹ đạo chủ đạo. Đến một Nguyễn Trãi vĩ đại là thế mà khi bị ruồng rẫy về Côn Sơn bao giờ lòng cũng đau đáu nghĩ đến vương triều, hễ được vời ra thì ra lại ngay. Đến thế kỷ XVIII lại có một hiện tượng ngược lại là người ta bỏ chạy khỏi Triều đình, bỏ chạy để về sống ẩn, chỉ có mình với mình. Đây là thời đại ly tâm. Vào thời đại Mạc thế kỷ XVI thì khác, người ta không bị hút về tâm nữa nhưng cũng không hẳn ly tâm, nhờ đó tạo nên chính sự tự chủ cho người thức giả. Mình muốn ra thì ra, muốn về thì về, biểu trưng rõ nhất là Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Bỉnh Khiêm ra thi với Mạc rồi sau 7 năm, thấy cần phải xuất thế ông bèn chủ động rút lui, bấy giờ Mạc vẫn chưa suy thoái. Về một thời gian ông lại ra giúp. Chính phong thái thung dung chủ động kia đã tạo nên tiếng nói tự do, tự tại trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và thơ văn của rất nhiều người như Nguyễn Hàng, Nguyễn Dữ… Dòng mạch tư duy tự do tự tại quy tụ nên hình tượng con người không bị lệ thuộc trăm phần trăm vào quyền lực nữa mà ít hay nhiều đã là con người tự do. Cần phải thừa nhận rằng trong cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm có một phương diện gọi là tự tại. Nhàn ở đây không phải là ẩn, chưa phải xã hội thối nát đến mức mình không thể chấp nhận được mà trở về vùi đầu trong hoa cúc, hoặc lẩn trốn vào cửa Thiền, hoặc tìm quên trong thú vui nào đấy. Nhàn, bởi mình cảm thấy phải làm chủ cuộc sống của mình, cho nên tự mình trở về an nhàn nghỉ ngơi. Nhưng khi nhà Mạc kêu gọi đi đánh bọn phản loạn thì Nguyễn lại ra giúp rất tích cực. Nhàn trong trường hợp này là nhàn tự tại. Nhàn tự tại chính là cái nét khác với nhàn ở nhiều thời đại khác là thứ nhàn chỉ muốn lánh đục, lánh Triều đình, “dũng thoái”. Nhàn tự tại không cố chấp mà hồn nhiên hơn.
Trở lên là mấy đặc điểm về mặt nội dung của văn học triều đại Mạc. Còn nói đến đặc điểm về mặt nghệ thuật, thì văn học thời thời này cũng có một số hiện tượng mới, không thể bỏ qua. Thơ Nôm đến Nguyễn Bỉnh Khiêm là sự thừa kế Nguyễn Trãi và về một mặt nào đấy còn được nâng lên. Thơ Hán có những thể tài mà Nguyễn Bỉnh Khiêm phải làm một bài dài đến 300 câu mới diễn đạt hết ý, như bài Thương loạn. Thơ chữ Hán do đó cũng ít nhiều có biến chuyển khác trước. Quan trọng hơn cả là thể truyện được thể nghiệm từ những tập truyện buổi đầu vào thời Lý – Trần, lượm lặt từng mẩu thần tích và truyền thuyết dân gian, rồi đến thời Lê tập Thánh Tông di thảo đã nhanh chóng thoát khỏi cái vỏ thần tích, trở thành một tập truyện có kết cấu chặt chẽ, cốt truyện nhiều tình tiết kết nối nhuần nhuyễn. Và sang thời Mạc thì bỗng kết tinh được một tập truyện cổ điển là Truyền kỳ mạn lục, về hình thức có thể so sánh với bất kỳ tập truyện truyền kỳ xuất sắc nào ở phương Đông. Ngoài ra, phú Nôm cũng là một thể loại nở rộ và mang một sắc thái khác trước. Phú Nôm hầu như không còn giọng khoa trương, trang trọng, ca ngợi đấng chí tôn, trái lại chuyển xuống cung bậc bình dân, giọng trào lộng đóng vai chủ đạo, ngôn ngữ thông tục được bác học hóa. Có thể nói phú Nôm thời Mạc đánh dấu bước đặt nền móng khá căn bản của ngôn từ tiếng Việt trong thể phú Việt Nam. Ngoài phú Nôm, còn có những tập truyện dài, truyện Nôm đã bắt đầu xuất hiện mà Tô Công phụng sứ là một trong những tác phẩm có khả năng ra đời vào thời Mạc, bởi nó gắn bó với câu chuyện Lê Quang Bí đi sứ đến 18 năm. Tập truyện Nôm này kể về một nhân vật Trung Hoa đời Hán cũng đi sứ đến 19 năm. Dù sao, đây vẫn là truyện Nôm dưới hình thức Đường luật chứ chưa có truyện Nôm dưới hình thức lục bát, tuy rằng lục bát và song thất lục bát cũng đã có mặt, bởi vì Hoàng Sĩ Khải đã có cả một bài Tứ thời khúc vịnh bằng song thất lục bát…
Vậy xét về thể loại, thời Mạc có những bước tiến, có những đóng góp cụ thể.
Nói chung, với những nguồn tư liệu mới được phát hiện từ mấy chục năm nay, với các phương pháp tiếp cận hiện đại tiếp thu được từ những lý thuyết khoa học xã hội nước ngoài, với không ít đổi mới trong cách đánh giá Vương triều Mạc trong lịch sử, văn học thời Mạc cũng cần được xem xét thích đáng, là một thời đại văn học đáng kể cả về số lượng cũng như thành tựu nội dung và nghệ thuật. Điều rất có ý nghĩa là văn học dưới thời đại Mạc đã xuất lộ một số yếu tố đánh dấu sự chuyển biến đúng hướng của văn học dân tộc ngày càng tiến gần đến hai khuynh hướng bình dân và hiện thực.
Tuy nhiên, do biến động của thời đại, do sự đối xử hẹp hòi của nhà Lê Trung hưng sau đó, do sự nghèo nàn về tư liệu, sự thụ động của nhiều nhà nghiên cứu hiện đại, văn học Mạc đã bị đối xử không công bằng, chưa được xếp đúng vị trí của nó trong các giáo trình, sách giáo khoa, công trình khảo cứu văn học…
Cùng với chiều hướng đang thay đổi trong cách nhận thức lại nhà Mạc của giới sử học nước nhà, giới nghiên cứu văn học còn có nhiều việc phải làm để khôi phục diện mạo cho văn học thời Mạc và xem xét các giá trị của nó đối với tiến trình phát triển của văn học dân tộc().

Tháng 6 – 2009

Tin cùng chuyên mục:

BIA MẠC
12 Tháng Ba, 2024